
Hãng hàng không huy động 2.000 tỷ từ trái phiếu
03/01/2025
Thông tin cần biết về đái tháo đường thai kỳ
03/01/2025Mặc dù trái tim được công nhận là một cơ quan quan trọng trong lịch sử loài người từ thời kỳ đầu phát triển nhưng chức năng của nó vẫn chưa được hiểu rõ và đã được tranh luận rộng rãi trong nhiều thiên niên kỷ.
Năm 1628, William Harvey, một bác sĩ ở London (Hình 1.1), người đã được đào tạo tại một trường Y ở Padua, Ý, đã xuất bản một chuyên khảo, De Motu Cordis, An Anatomical Treatise on the Motion of the Heart and Blood, kết luận chỉ đơn giản là: “Máu trong cơ thể động vật di chuyển liên tục theo vòng tròn và chức năng của tim là thực hiện điều này bằng cách hút và bơm máu”. Harvey đưa ra kết luận này dựa trên các nghiên cứu giải phẫu chi tiết bao gồm các van trong tĩnh mạch dường như chỉ cho phép máu chảy theo một chiều về tim. Ông đã tiến hành thí nghiệm trên người và thỏ rồi ước tính được cung lượng tim. Điều quan trọng là nghiên cứu của Harvey là nghiên cứu lớn đầu tiên dựa trên giả thuyết trong sinh học.
Mặc dù những phát hiện của ông không được chấp nhận thống nhất trong suốt cuộc đời của ông, nhưng ngày nay chúng được coi là một trong những thành tựu khoa học của thời kỳ Phục hưng, cùng với các công trình của Isaac New- ton và Galileo Galilei. Kết luận của Harvey được củng cố bởi hai phát hiện sau đó. Đầu tiên là mô tả về tuần hoàn mao mạch vào năm 1661 bởi Marcello Malpighi, người đã xác định được mối liên kết giải phẫu cuối cùng này trong chuỗi tuần hoàn. Nghiên cứu khác của Richard Lower năm 1668 là vai trò của tuần hoàn phổi trong việc thay đổi màu sắc của máu khi nó tiếp xúc với không khí trong phổi. Do vậy, đến nay, hầu hết các nhà khoa học trên thế giới đều công nhận Harvey như là người khởi đầu cho chuyên ngành Tim mạch hay còn gọi là “ông tổ” của chuyên ngành Tim mạch.
Giai đoạn phát triển chuyên ngành tim mạch thuở ban đầu
Năm 1733, Steven Hales đã đo áp lực động mạch và tĩnh mạch ở ngựa và các động vật có vú khác (Hình 1.3). Ông được coi như người tiên phong đặt nền móng trong thông tim thăm dò huyết động. Trong lĩnh vực lâm sàng, với việc nghe tiếng tim “trực tiếp” (đặt tai lên vùng trước tim) để nghe nhịp tim được sử dụng phổ biến vào thế kỷ 18. Sau đó công việc kiểm tra tim được đẩy mạnh sau năm 1823, khi René Laennec, một bác sĩ người Pháp, người phát triển ống nghe, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong lâm sàng tim mạch.
Giai đoạn này bắt đầu có sự xuất hiện các thuốc điều trị bệnh tim mạch. Trong chuyên khảo năm 1775 về mao địa hoàng (digitalis), William Withering đã mô tả tính hiệu quả của nó trong việc điều trị các bệnh nhân bị “cổ trướng”, tức là chứng phù nề, có lẽ là phù nề do suy tim. William Heberden đã mô tả chứng đau thắt ngực vào năm 1772 và 40 năm sau, bài báo đầu tiên trong số đầu tiên của Tạp chí Y học New England (NEJM) của John Warren, một bác sĩ ở Boston, đã thảo luận về triệu chứng này. Tuy nhiên, đau thắt ngực dường như không được ghi nhận thường xuyên. Năm 1879, FA Mahomed đã mô tả bệnh tăng huyết áp không liên quan đến bệnh thận, tiền thân của tình trạng ngày nay được gọi là tăng huyết áp nguyên phát hoặc vô căn. Một số chứng rồi loạn nhịp tim quan trọng đã được mô tả vào giữa đến cuối thế kỷ 19. Chúng bao gồm nhịp tim chậm nghiêm trọng do Stokes mô tả vào năm 1854 và rung tâm thất do MacWilliams mô tả vào năm 1887.
Vào cuối thế kỷ 19, các nhà sinh lý học và bác sĩ lâm sàng đã nhận thức được quá trình khử cực và tái cực điện của tim và có thể nhận ra một số chứng loạn nhịp tim bằng cách nghe tim và bắt mạch. Các thầy thuốc cũng biết rằng tăng huyết áp có thể xảy ra cả khi có hoặc không có bệnh thận tiến triển và có thể liên quan đến chứng phì đại tâm thất. Thời điểm này, các thầy thuốc nhận biết ra bệnh lý tim mạch bao gồm các bệnh tim bẩm sinh và bệnh van tim, đau thắt ngực và suy tim. Tuy nhiên, thời kỳ này, bệnh tim mạch không được coi là phổ biến lắm; nó được điều trị bằng cách nghỉ ngơi tại giường, digitalis, nitrat và đôi khi là morphin.
Sự ra đời của một chuyên ngành: Chuyên ngành Tim mạch
Thập kỷ từ 1895 đến 1905, nối liền thế kỷ 19 và 20, có lẽ là thập kỷ quan trọng nhất trong lịch sử tim mạch vì đã phát hiện ra ba công nghệ cực kỳ quan trọng. Năm 1895, Wilhelm Roentgen, một nhà vật lý người Đức, đã phát hiện ra việc sử dụng tia X, kỹ thuật đầu tiên để chụp ảnh các bộ phận cơ thể ở người sống nguyên vẹn, cho phép ước tính kích thước và hình dạng của tim.
Thứ hai là Phương pháp đo huyết áp (HA) không xâm lấn được phát triển bởi Riva Rocci, một bác sĩ người Ý, vào năm 1896 và Korotkoff ở Nga vào năm 1905.
Thứ ba là Phương pháp ghi điện tâm đồ đầu tiên sử dụng điện kế dây của Willem Einthoven, một nhà sinh lý học lâm sàng người Hà Lan, đã được báo cáo vào năm 1903. Cùng với thăm khám lâm sàng, ba công nghệ mới này. cho phép đánh giá lâm sàng các dấu hiệu chính của hệ thống tim mạch. Đến đây, rõ ràng là bệnh tim đã được phát hiện nhiều hơn và phổ biến hơn nhiều so với những gì người ta đã nghĩ hoặc nghi ngờ. Các bác sĩ chuyên về nhóm bệnh lý này trở thành chuyên gia trong việc sử dụng và phiên giải những kết quả từ thành tựu kỹ thuật mới này được mệnh danh là những “chuyên gia về tim” hoặc “bác sĩ tim mạch”. Và như vậy, một chuyên ngành tim mạch đã ra đời. Những tiến bộ đã đến nhanh chóng trong chuyên ngành mới này dẫn đến nhu cầu phát triển các tạp chí y khoa để ghi nhận lại các kết quả, thành tựu khoa học.
Sự ra đời tạp chí chuyên ngành tim mạch sớm nhất là Zentralblatt für Herz Krankenheiten ở Đức và Archives des Maladies du Coeur ở Pháp, cả hai đều vào năm 1908. Sau đó, một số lượng lớn các tạp chí về tim mạch đã liên tục xuất hiện. Tính đến năm 2020, có 138 tạp chí về tim mạch (có uy tín) được xuất bản thường xuyên. Các Hiệp hội tim mạch quốc gia được thành lập để tập hợp các bác sĩ tim mạch và học viên từ mỗi quốc gia lại với nhau để chia sẻ kinh nghiệm và mô tả những tiến bộ trong khoa học tim mạch và tim mạch lâm sàng. Câu lạc bộ đầu tiên trong số này, Câu lạc bộ Tim mạch Anh, được thành lập vào năm 1922 và năm 1937, nó đổi tên thành Hiệp hội Tim mạch Anh. Ngoài việc tổ chức các cuộc họp thường niên, các hiệp hội này còn xuất bản các tạp chí tim mạch quốc gia. Bắt đầu từ những năm cuối thế kỷ 20, các hiệp hội đã phát triển và ban hành các hướng dẫn thực hành lâm sàng nhằm cải thiện độ chính xác của chẩn đoán tim mạch và chất lượng chăm sóc. Hiệp hội tim mạch quốc gia đã tham gia với các nước láng giềng trong khu vực của họ để thành lập các hiệp hội khu vực, chẳng hạn như Hiệp hội Tim mạch Châu Âu. Tiếp đến là sự phát triển của Liên đoàn Tim mạch Thế giới phản ánh sự toàn cầu hóa của chuyên ngành tim mạch lâm sàng và nghiên cứu tim mạch.
Sự phát triển mạnh mẽ của chuyên ngành tim mạch, đặc biệt trong vài thập kỷ gần đây đã hình thành các chuyên ngành sâu trong chuyên ngành như chấn đoán hình ảnh trong tim mạch, thông tim và tim mạch can thiệp, suy tim, tăng huyết áp, các bệnh van tim, rối loạn nhịp tim,… Để có cái nhìn cụ thể hơn, tôi xin trình bày sau về lịch sử phát triển và tương lai theo một số chuyên ngành sâu trong tim mạch./.
— Sưu tầm —






